Vấn đề con người trong quan niệm pháp trị của Hàn Phi

11/05/2016 15:00
Pháp gia được biết đến với tư cách là một trong bốn trường phái lớn nhất của hệ thống tư tưởng triết học Trung Quốc thời cổ đại. Trong số các đại biểu lớn, Hàn Phi Tử được coi là tập đại thành của tư tưởng Pháp gia

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI

TRONG QUAN NIỆM PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI*

 

TS. Triệu Quang Minh

       

Pháp gia được biết đến với tư cách là một trong bốn trường phái lớn nhất của hệ thống tư tưởng triết học Trung Quốc thời cổ đại. Trong số các đại biểu lớn, Hàn Phi Tử được coi là tập đại thành của tư tưởng Pháp gia. Chính vì vậy, vấn đề con người trong triết thuyết chính trị của ông là sự tập hợp đầy đủ toàn bộ nội dung căn bản về vấn đề này của  trường phái Pháp gia. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu vấn đề này, có thể thấy vượt lên hình ảnh con người thần bí, đức độ với những tấm gương hoàn hảo của Nho gia, Hàn Phi Tử đã động chạm tới điểm mấu chốt nhất của giá trị Người trên cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Có lẽ vì thế, Pháp gia thường được đề cập tới như một thứ công cụ để trị người hơn là dạy người và dùng người. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề con người trong tư tưởng Hàn Phi Tử, chúng ta bắt gặp không ít vấn đề của xã hội hiện tại, những giá trị mới trong những nội dung tưởng như đã cũ.

1. Quan niệm về bản chất con người của Hàn Phi

Là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi tán đồng quan niệm “tính con người ta vốn ác”[1] của Tuân Tử và bổ sung, phát triển nó bằng những nội dung mới. Những nội dung về vấn đề con người trong triết thuyết của ông khá “tàn nhẫn” và thể hiện một sự “công phá” từ bên trong khi ông nhận ra bản chất đích thực của con người lại thường bị che dấu bởi những giá trị “không thật”. Ông chấp nhận con người với đầy đủ bản năng sinh tồn để đấu tranh cho sự tồn tại của chính bản thân mình như một lẽ tự nhiên. Với xuất phát điểm đó, Hàn Phi đã đi thẳng vào khía cạnh lợi ích cá nhân- chủ yếu là lợi ích về mặt vật chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại của mọi cá thể. Bản chất này được bộc lộ qua vô số các hiện tượng khác nhau như: người đóng quan tài thì mong cho người ta chết, người làm cỗ xe thì mong cho người ta được sang, thầy thuốc thì mong người ta bị bệnh nhiều, trong quan hệ vua tôi: “làm hại đến thân mình mà có lợi cho nước, bầy tôi không làm…tình cảm của bề tôi là không thấy cái lợi ở chỗ mình bị thiệt hại”[2]. Cho nên với Hàn Phi, các quan hệ giữa người với người đều bị quyết định bởi cái lợi ích thiết thân. Cái lợi ở đâu thì người ta theo đó mà làm, cái hại đến thân ở đâu thì người ta theo đó mà tránh, mọi giá trị nhân, nghĩa đều chỉ là giả dối.

Thẳng thắn nhìn vào con người với tư cách là một sinh vật mang bản chất hám lợi và ích kỷ, Hàn Phi chấp nhận sự tồn tại phổ biến của dạng người này một cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển. Theo ông, đã có thời kỳ lịch sử con người không đặt cái lợi ích lên hàng đầu đó là thời thượng cổ. Lúc đó “đàn ông không cày vì các sản phẩm của cây, cỏ đủ để ăn; đàn bà không dệt vì da của chim muông đủ để mặc; không phải vất vả mà việc nuôi dưỡng có đủ, số người thì ít mà tài sản thì có thừa. Vì vậy cho nên nhân dân không phải tranh giành. Bởi vậy không cần thưởng hậu, không phải dùng hình phạt nặng mà nhân dân tự nhiên trị an”[3]. Nhưng về sau, khi con người đông lên, của cải ít đi, mặc dù họ đã cố gắng vất vả làm việc nhưng vẫn không đủ sống. Lúc này xã hội bắt đầu nảy sinh tranh giành của cải, cứơp bóc lẫn nhau và xã hội vì thế mà loạn. Ông đã giải thích mâu thuẫn xã hội bắt đầu từ lợi ích kinh tế trên cơ sở phân tích sự biến đổi của điều kiện dân số, tình trạng dân cư, trình độ của công cụ lao động…Có thể thấy, khi khẳng định ảnh hưởng mang tính quyết định của yếu tố kinh tế đối với mỗi cá nhân và từng xã hội, Hàn Phi thực sự đã động chạm đến gốc rễ của vấn đề, cái gốc rễ mà nhiều người đương thời phải che đậy không dám thẳng thắn thừa nhận nó. Cao hơn, Hàn Phi còn nhận ra tác dụng hai chiều của yếu tố kinh tế đối với con người. Một mặt, cái lợi là yếu tố căn bản thúc đẩy con người hành động tranh giành của cải và là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn, nhưng mặt khác nó cũng là yếu tố liên kết con người với nhau. Theo đó, hành động vì cái lợi là lẽ bình thường chỉ cần đặt cái lợi riêng trong cái lợi chung, không vì cái lợi riêng mà đi ngược lại cái lợi chung. Đây là tư tưởng biện chứng khá sâu sắc của Hàn Phi. Ông đã đánh giá xã hội đương thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc bén và thẳng thắn. Như một bản cáo trạng đối với chế độ quân chủ, trong hệ thống triết học- chính trị của Hàn Phi, mỗi con người, với tư cách là cá nhân đều bị lột trần cái vỏ bọc bề ngoài để hiện ra với nguyên nghĩa cá thể cần những giá trị căn bản bên trong như nhau để tồn tại. Bản chất hám lợi, sợ hại ấy của con người, đối với Hàn Phi là cái không thể che dấu, sửa đổi nhưng nếu biết sử dụng nó cho hợp lý trong các mối quan hệ giữa người với người thì nó đem lại hiệu quả nhất định.

Xem thêm: Giá trị nhân văn trong quan niệm về hiếu đạo của Nho giáo nguyên thủy

2. Phương pháp giáo hoá đạo làm người của Hàn Phi

Để đến được với những nội dung thực chất bên trong của xã hội quân chủ và khẳng định bản chất của con người nói chung, từ đó chỉ ra nguyên lý cơ bản với tư cách là đạo làm người, Hàn Phi đã xuất phát từ chính điều kiện lịch sử cụ thể, dùng chính sự trải nghiệm của bản thân kết hợp với vốn kiến thức uyên thâm về nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn học, chính trị…Đặc biệt “ông là người duy nhất của Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp, ở đó Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản thiết kế, nhưng Lão mới là kỹ thuật thi công của cái ngôi nhà độc đáo”[4]. Tất cả những lý do trên khiến cho đạo làm người của Hàn Phi không đi quá nhiều vào nguyên lý mà thường xuất phát từ điều kiện xã hội và hoàn cảnh cụ thể để phân tích đúng sai, được mất. Tư tưởng này không được ông trình bày với tư cách là một nội dung độc lập mà nó biểu hiện qua những câu chuyện luận bàn về lối xử thế và cách nhìn nhận sự vật, sự việc để hành động…Ở đó, chúng ta gặp lại quan niệm Đạo của Lão tử, Chính danh của Nho gia nhưng dưới hình thức, cách lý giải và vận dụng khác. Đạo ấy, đối với Hàn Phi không thể gọi tên, định hình vì nó luôn biến dịch theo thời. Trong Quyển VI, thiên XX, Giải Lão, Hàn Phi khẳng định tính biến dịch của đạo: Đạo cũng giống như nước, kẻ khát uống nó mà sống, người chết đuối vì uống nó nhiều mà chết. Nó cũng giống như thanh kiếm, mũi giáo, người ngu dùng nó vào việc phẫn nộ mà sinh ra hoạ, bậc thánh nhân dùng nó tạo ra cái phúc bằng cách trừng trị kẻ bạo ngược. Như vậy, có thể thấy Hàn Phi vẫn giữ cái đạo pháp tự nhiên giống như trong quan niệm của Lão Tử và quan trọng hơn cả đó là hiểu được lẽ tự nhiên để đề phòng và tận dụng. Nói cách khác,bằng cách nhìn thẳng vào các quan hệ bất biến với lối tư duy có phần hiện đại, Hàn Phi đặt mọi vật, mọi việc, mọi cá thể vào mối quan hệ tất yếu để từ đó đạo làm người của ông là cái phải được chấp nhận như lẽ tất nhiên. Quan niệm này có tiền đề từ chính tồn tại xã hội và ý thức xã hội của xã hội Trung Hoa cổ đại.

Sống vào thời đại tranh bá tranh vương, mua danh, bán tước Hàn Phi nhận ra các mánh khoé của tất cả các hạng người trong xã hội. Nhưng ông không vì thế mà bi quan trước thế cục để ảo tưởng mơ về một thời đại huy hoàng như thời đại trước. Đối với Hàn Phi thì các đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều làm trái cái nghĩa thông thường, làm cho việc giáo hoá đời sau bị rối loạn. Đức dày không đủ để ngăn cấm điều loạn nhưng uy thế thì có thể, cho nên ông phản đối cách đề cao các bậc đế vương theo lối học thuật để dạy người. Theo Hàn Phi, hình phạt là gốc của lòng thương, xét cái đạo hiếu đễ, trung thuận cho kỹ mà thi hành. Chính vì thế, quan niệm của Hàn Phi không quá khó hiểu nhưng cũng không hẳn là dễ áp dụng. Mặc dù vậy, đằng sau những nội dung xử thế tưởng như khá cực đoan là một Hàn Phi với cách nhìn khách quan, thẳng thắn, biện chứng về mối quan hệ giữa người với người mà không phải nhà tư tưởng nào cũng có được và dám nhắc đến. Tuy nhiên, xã hội dưới chế độ quân chủ chỉ có một cá thể có quyền cao nhất đó là nhà vua. Vì thế, nói về nguyên tắc thì đạo là nguyên lý chung để con người tồn tại nhưng trên thực tế, thi hành đạo chỉ có nhà vua, chỉ có đạo của vua chúa. Nhà vua phải thông qua hệ thống pháp luật, dựa vào thế và thuật của mình để vận hành bộ máy quan lại và cai trị nhân dân. Nói cách khác, nội dung phương pháp giáo hoá đạo làm người cho mọi thành viên xã hội theo tư tưởng của Hàn Phi tập trung vào ba phạm trù căn bản: pháp, thế, thuật.

 Thứ nhất, bàn về “pháp”, Hàn Phi quan niệm, “Pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh” [5]. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo ông là những quy định thưởng và phạt. Pháp luật đã đặt ra thì không phân biệt kẻ sang người hèn, đại thần hay kẻ thất phu. Đó chính là tính công bằng của pháp luật. Từ xưa đến nay bậc vua sáng suốt có thể chế ngự được bầy tôi, làm cho nước trị an là nhờ sử dụng pháp luật một cách công bằng thông qua hai cái cán hình và đức. Giết chóc gọi là hình phạt, khen thưởng gọi là ân đức. Hàn Phi khuyến khích việc thưởng hậu cho những người có công và phạt nặng với những người vi phạm. Ông cho rằng, thưởng hậu thì cái mình muốn sẽ có được nhanh mà phạt nặng thì cái mình muốn ngăn cấm sẽ ngăn cấm được nhanh chóng. Cái lý của Hàn Phi về vấn đề này khá rõ ràng: “áp dụng hình phạt nhẹ nhàng người dân tất sẽ coi thường phạm thêm lỗi lầm, nếu người dân phạm tội mà không bị lên án thì pháp lệnh sẽ mất hiệu lực. Cho nên hình phạt nhẹ nếu không làm nhiễu loạn đất nước thì cũng giăng bẫy người dân, đó mới thực sự là tổn hại đến trăm họ vậy”[6]. Quan điểm này nhất quán với nguyên tắc hình phạt là gốc của lòng thương của ông. Trong thiên Tâm độ, sách Hàn Phi Tử (Phan Ngọc dịch), Hàn Phi giải thích: bậc thánh nhân trị dân là xét ở cái gốc chứ không phải theo lòng mong muốn của dân, chỉ cốt làm lợi cho dân mà thôi. Cho nên thi hành hình phạt không phải là ghét dân mà là vì yêu cái gốc. Hình phạt mà thắng thì dân yên tĩnh… Bậc vua sáng trị nước, soi sáng việc thưởng thì dân hăng hái làm công việc; dùng hình phạt nghiêm thì dân yêu quý pháp luật.

 Có thể thấy, tư duy của Hàn Phi về việc dùng pháp luật để trị người và ổn định xã hội mang nội dung khá biện chứng. Ông đòi hỏi khi được soạn thảo, ban hành, pháp luật phải dễ thi hành và có tính thống nhất, công bằng và không được lấy tình cảm riêng tư để sửa đổi tuỳ tiện. Song, pháp luật cũng không có nghĩa là nhất thành bất biến mà “pháp luật phải có sự chuyển hoá theo diễn biến của thời đại”[7]. Tư tưởng của Hàn Phi về vấn đề này đã thực sự vượt lên trên lập trường giai cấp của giai cấp quý tộc và đến gần với những lý luận dân chủ hiện đại. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan thân phận con người trước pháp luật trong tư tưởng của Hàn Phi là ở thế nhỏ bé, bị động, phụ thuộc với thân phận “nô lệ” chứ không phải “công dân”.

Thứ hai, bàn về “thế”, Hàn Phi cho rằng, nhân dân sợ uy quyền chứ rất rất ít người quy phục đạo nghĩa. Ông viện dẫn đến như Khổng Tử là bậc thánh nhân về mặt tu dưỡng đạo đức, lấy nhân nghĩa làm trọng, đến sau cùng cũng chỉ có bẩy mươi người nối nghiệp. Đem con số bẩy mươi đó ra mà so sánh với số người trong thiên hạ thì thấy rằng số người mến trọng nhân nghĩa là rất bé nhỏ. Trong khi đó “bậc thánh nhân trị nước không cậy ở chỗ người ta yêu mình mà dùng cái thế khiến người ta không thể làm điều sai. Trông cậy người ta làm điều hay cho mình thì trong một nước không đến mười người, nhưng dùng cái thế khiến người ta không thể làm bậy thì có thể trị được cả một nước.”[8]

Theo Hàn Phi, pháp luật là công cụ để trị dân, ổn định xã hội nhưng để mọi người tuân thủ theo pháp luật thì người cầm đầu chính thể phải có “thế”. Nếu cái danh của nhà vua bị hạ thấp và địa vị bị nguy thì người dưới nhất định không theo pháp lệnh. Hàn Phi cho rằng: “Uy thế là cái thống trị thiên hạ, là chỗ dựa để sai khiến quần thần. Có quyền thế thì sẽ có được sự tôn quý, còn nếu bị mất quyền thế thì sẽ bị mất luôn quốc gia, sẽ có nguy cơ bị giết hại. Cho nên nhà vua nhất định phải tự mình giữ lấy quyền thế, không để lơ là lọt vào tay kẻ khác”[9]. Tư tưởng này của Hàn Phi hoàn toàn phù hợp với thời kỳ của xã hội quân chủ, thời kỳ tôn quân quyền. Cao hơn, Hàn Phi còn nhận ra hai mặt của một vấn đề: một mặt nhà vua cần phải giữ lấy cái quyền thưởng phạt của người cầm đầu chính thể thông qua “thế” của mình với tư cách là cái độc tôn. Nhưng mặt khác, nhà vua không thể tự mình làm tất cả các công việc mà phải cắt đặt các chức quan và trao quyền cho họ theo nguyên tắc minh chủ trị lại bất trị dân điều này cũng có nghĩa là để cai trị xã hội có hiệu quả nhà vua phải xác lập vị thế nhất định cho quan lại. Cho nên, nếu bề tôi có thể mượn được và lợi dụng quyền thế của vua thì họ có nhiều sức mạnh để làm lợi, nhà vua sẽ dần bị che lấp. Chính vì vậy nhà vua vẫn phải quản lý công việc thông qua hệ thống quan lại nhưng khoanh vùng lại để cái thế của quan đủ để thi hành pháp luật. Các quan đại thần vẫn được phân cấp bậc, vẫn có bổng lộc và trách nhiệm cụ thể song họ chỉ có quyền hạn trong phạm vi nhất định, việc họ làm là để đề cao nhà vua, mỗi người làm một chức quan không thể chuyên quyền và lấn át người khác. Tuy nhiên, làm thế nào để sử dụng và phát huy được “thế” thì Hàn Phi không chỉ rõ. Theo ông tuy cùng thi hành cái đạo bất biến nhưng ở mỗi ông vua đều có cái “thuật” cai trị của riêng mình.

Thứ ba, bàn về “thuật”, trong thiên Định Pháp, sách Hàn Phi Tử (Phan Ngọc dịch), Hàn Phi khẳng định: Thuật là cái nhà vua nắm lấy, là nhân trách nhiệm mà giao chức quan, theo tên gọi mà đặt ra yêu cầu thực sự, nắm lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tôi. Ông vua nào khi lên ngôi cũng chuẩn bị cho mình các phương sách cai trị đều dựa trên nội hàm căn bản đó của “thuật”. Nhưng việc triển khai nội dung của “thuật” thì không có triều đại nào giống hệt các triều đại trước đó. Tại sao như vậy? Bởi vì với mỗi triều đại, cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đều đã thay đổi. Mặt khác, nếu “pháp” là cái được được lưu truyền, công bố rộng rãi, thì “thuật” mang tính bí hiểm và được triển khai theo cơ chế ngầm, “ngay cả thê thiếp yêu quý nhất, hay các cận thần được sủng ái hầu cận bên vua cũng không ai được biết”[10]. Cho nên, theo Hàn Phi, “vận dụng phương thuật phải bí mật bất ngờ như quỷ thần vậy…dùng thuật mà bí mật bất ngờ như quỷ thần thì bầy tôi không có cách gì theo đó mà đầu cơ trục lợi nữa”[11].

Theo Hàn Phi, “thuật” trước hết thể hiện thông qua khả năng nhận dạng và phân loại con người. Bằng cách nhìn nhận thẳng thắn, ông chỉ ra rằng xung quanh nhà vua ai cũng có thể trở thành kẻ gian bởi con người không ai không ra sức liều chết để đạt được cái mình mong muốn. Cho nên cái quan trọng nhất đối với vua là thuật trừ gian. Muốn trừ gian, bậc thánh nhân phải bỏ cái khôn ngoan, khéo léo, cái yêu ghét của mình. Ở đây không phải Hàn Phi chủ trương dựng lên một ông vua ngu dốt, giả dối mà theo Hàn Phi, đó là cái đạo nhìn xa trông rộng của bậc thánh nhân. Ông giải thích, nếu nhà vua có thể từ bỏ (nhưng thực chất là che dấu) cái khéo léo, khôn ngoan và sự yêu ghét của mình thì giữ được cái nguyên lý bất biến, khiến cho người dưới không thể lừa dối vua, không thể che dấu cái xấu của họ mà phải tỏ lòng ngay thực.

Có năm loại người được Hàn Phi liệt vào Ngũ đố tức năm lũ sâu mọt cần xử lý: bọn học giả trong nước khen cái đạo của các tiên vương, tỏ ra mình nhân nghĩa, làm người ta ngờ vực pháp lệnh đương thời, làm lòng vua phân vân; bọn bày ra những chuyện dối trá, mượn sức nước ngoài để thực hiện điều riêng tư của mình, quên mất cái lợi của xã tắc; bọn thân tín của nhà vua tụ tập ở các nhà riêng, hối lộ kẻ có quyền thế để khỏi phải vất vả nơi chiến trận; bọn thương nhân, bọn thợ chế tạo những vật vô dụng, chứa chất của cải để giành cái lợi gấp đôi người cày.

Đối với các hạng người khác nhau cần có cách trừng trị và nuôi dưỡng khác nhau song trong thuật cai trị, Hàn Phi nhấn mạnh nguyên tắc dùng công việc để sử dụng người, đó là cái then chốt của sự còn hay mất, trị hay loạn. Cụ thể hơn, ông chỉ ra bảy thuật vua chúa dùng đó là: xem xét và so sánh các đầu mối; phạt chắc chắn nêu cao uy quyền; thưởng chắc chắn để dùng hết năng lực; nghe mọi người và bắt người dưới chịu trách nhiệm về điều đã nói; ra những mệnh lệnh đáng ngờ và dùng mánh khoé để sai khiến; tập hợp những người hiểu biết sự thực; đảo ngược lời nói và đảo ngược công việc. Ông còn yêu cầu phải có sự khảo sát, điều tra và khi có kết quả lại phải tiếp tục kiểm tra kỹ lưỡng. Có thể thấy quan niệm này của Hàn Phi rất chắt chẽ, toàn diện và đến gần với những quan điểm hiện đại.

Theo Hàn Phi, trong dùng “thuật” nhà vua cần thực hiện theo cơ chế: bên trong thì có biện pháp đề phòng, thay đổi luôn luôn, bên ngoài thì cứ chiếu theo phép tắc mà xử. Vua biết tập hợp cái khôn của nhiều người thì không giỏi cũng thành giỏi. Song, “người tài trí chưa chắc có đạo đức, họ thường xuyên mưu mô để hại nhà vua. Còn người tu thân, liêm khiết thì không đa mưu, túc trí, phán quyết công việc thường tự cho là mình đúng, làm cho sự việc rối tung lên”[12]. Như vậy, cũng có nghĩa là việc sử dụng con người cái chính là căn cứ vào thế mạnh của họ, nhưng bổ nhiệm những chức quan trọng thì nhất định phải xem xét nhiều mặt. Cách tốt nhất là để cho bề tôi tự trình bày, theo đó giao việc, xét kết quả công việc và lời nói ban đầu mà thưởng phạt theo quy định của pháp lệnh.

Có thể nói, nhờ có “thuật” trị nước mà nhà vua tuy ở trong cung nhưng vẫn nắm được mọi tình hình, không làm gì mà thực chất lại đang chi phối tất cả, lấy cái tĩnh của mình để khống chế cái động của lòng người. Cho nên, theo Hàn Phi cái đạo bất biến của việc cai trị là lấy cái danh (tức tên gọi) làm đầu. Danh đã chính thì sự vật được xác định. Cái danh mà thiên lệch thì sự vật thay đổi. Cái danh được dùng để định rõ vị trí của mỗi người, lấy cái chức tước, cái danh phận để giao việc, lấy bổng lộc để khuyến khích họ nhưng nhà vua xét cái hình tức tình hình thực tế công việc của họ để thưởng và phạt. Đó chính là nguyên lý vua nắm cái danh, bề tôi chạy cái thực. Cho nên xét ra, thuyết Chính danh của Nho gia và Hình danh của Pháp gia (Hàn Phi Tử) đều đặt mục tiêu ổn định xã hội, nhưng nếu Chính danh định phận là nhằm duy trì trật tự đẳng cấp khắc nghiệt thì Hình danh của Pháp gia đã mang trong mình nó mầm mống của tư tưởng bình đẳng.

Nhìn chung, học thuyết Pháp trị của Hàn Phi được xây dựng và hoàn thiện dựa trên những tiền đề lý luận và thực tiễn chắc chắn. Bằng con mắt tinh đời, ông nhìn nhận sự vật, sự việc một cách thẳng thắn và khách quan. Với lối tư duy biện chứng và cách diễn đạt đầy thuyết phục, Hàn Phi đã xây dựng một lý luận có tính thực tiễn cao bằng logíc khó bẻ gãy. Con mắt của ông đối với thế cục và con người tuy lạnh lùng, tàn nhẫn và có phần cực đoan nhưng không bi quan. Ông đề cao vai trò của pháp luật và đi liền với nó là việc coi trọng giáo dục. Ông quan niệm, cứ đợi mũi tên nó tự thẳng thì một trăm đời cũng không có tên, nếu đợi cây gỗ tự tròn thì một ngàn đời cũng không có bánh xe. Cho nên, với Hàn Phi, hình phạt là gốc của lòng thương, sự giáo dục cần phải được tiến hành sớm và liên tục để ngăn chặn mọi cơ hội biểu hiện bản chất vụ lợi của con người. Nhưng nếu cho rằng học thuyết của Hàn Phi nặng về hình, nhẹ về đức khi ông chủ trương dùng pháp luật để giải quyết tất cả mọi việc thì chưa thật thoả đáng bởi lẽ pháp luật theo quan điểm của Hàn Phi là thấu suốt tình cảm con người  nên có thể nói trong cái “hình” đã có cái “đức”, không hề có sự tách biệt.

Quan điểm của Hàn Phi còn nhiều hạn chế, nhất là việc chỉ thấy khía cạnh vụ lợi của con người mà không thấy rằng con người còn có rất nhiều lý tưởng cao đẹp để phấn đấu và hy sinh. Xét theo một khía cạnh nào đó mục tiêu xây dựng lý luận của ông cuối cùng cũng chỉ để tạo ra một công cụ phục vụ cho nhà vua củng có địa vị và quyền lực độc tôn của mình. Cho nên, con người trong học thuyết của ông luôn ở địa vị thấp hèn và bị phụ thuộc. Sự bình đẳng của con người trước pháp luật là sự bình đẳng về thân phận người nô lệ dưới ngai vàng của nhà vua. Tuy nhiên, vượt lên trên những hạn chế đó là một Hàn Phi ghi dấu ấn của mình vào lịch sử tư tưởng Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung với một học thuyết dám nhìn thẳng vào sự thật và khẳng định những giá trị lợi ích căn bản là động cơ cho mọi hành động của con người, bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa người với người và phê phán chế độ quân chủ từ bên trong.

Cuối cùng, để bao quát hết được nội dung, đánh giá được một cách khách quan và đến được tầng sâu của vấn đề con người trong triết thuyết của Hàn Phi không hề đơn giản. Song, trở lại với với một vài khía cạnh trong vấn đề này để thêm một lần nữa khẳng định vị trí và giá trị tư tưởng của Hàn Phi - một nhà tư tưởng lỗi lạc của Trung Hoa và của nhân loại.

 

* Tạp chí Triết học

[1] Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi: Tuân Tử, Nxb.Văn Hoá, Hà Nội.1994, tr.50.

[2] Phan Ngọc (dịch):  Hàn Phi Tử, Nxb.Văn học, Hà Nội. 2005, tr.167

[3] Sđd, tr. 540

[4]  Phan Ngọc (dịch):  Hàn Phi Tử, Nxb.Văn học, Hà Nội. 2005, tr.17.

[5] Phan Ngọc (dịch):  Hàn Phi Tử, Nxb.Văn học, Hà Nội. 2005, tr.478-479.

[6] Hàn Thế Chân (dịch): Hàn Phi Tử -  sự phát triển của tư tưởng Pháp gia. Nxb. Đồng Nai,1995, tr.102

[7] Sđd: tr.84.

[8] Phan Ngọc (dịch):  Hàn Phi Tử, Nxb.Văn học, Hà Nội. 2005, tr.568

[9] Hàn Thế Chân (dịch): Hàn Phi Tử - sự phát triển của tư tưởng Pháp gia. Nxb. Đồng Nai,1995, tr.197-198

[10] Hàn Thế Chân (dịch): Hàn Phi Tử - sự phát triển của tư tưởng Pháp gia. Nxb. Đồng Nai,1995, tr.81

[11] Sđd, tr.122

[12] Sđd, tr.178

| Trung tâm Tiếng Trung Ánh Dương