Danh ngôn vợ chồng trong tiếng Trung và tiếng Việt
Người xưa có câu “Duyên vợ chồng là duyên nợ từ kiếp trước”, từ đó có thể thấy được vợ chồng là mối quan hệ rất đáng quý. Vậy thì, trong bài viết ngày hôm nay, hãy cùng Tiếng Trung Ánh Dương tìm hiểu về những câu danh ngôn vợ chồng trong tiếng Trung Quốc và trong tiếng Việt nhé!
Lời dạy của Khổng Tử về đạo làm người
Thơ Hán Việt hay về tình yêu
1. Tu trăm kiếp mới đi chung thuyền, tu ngàn kiếp mới nên duyên vợ chồng
Hán Việt: Bách thế tu lai đồng độ thuyền, thiên thế tu lai cộng chẩm miên
Tiếng Hán: 百世修来同渡船,千世修来共枕眠 (Bǎishì xiū lái tóng dùchuán, qiānshì xiū lái gòng zhěn mián)
- 世: kiếp, đời người
- 修: tu hành
- 同渡船: ngồi cùng một chiếc thuyền
- 共枕眠: nằm chung chăn chung gối (ám chỉ quan hệ vợ chồng)
Như vậy, có thể hiểu câu nói này là con người ta phải tu hành 100 kiếp mới có thể có duyên ngồi cùng nhau trên một chiếc thuyền, mà phải tu 1000 kiếp mới có duyên nên vợ nên chồng. Hai người có duyên phải trải qua nhiều kiếp người, nhiều khó khăn mới có một kiếp đến được với nhau. Vì vậy phải giữ gìn đạo vợ chồng, trân trọng mối nhân duyên đáng quý ấy.
2. Người vợ tài đức là mũ miện của trượng phu
Hán Việt: Tài đức đích phụ nhân, thị trượng phu đích quan miện
Tiếng Hán: 才德的妇人,是丈夫的冠冕 (Cái dé de fù rén, shì zhàngfū de guānmiǎn)
- 才德: tài đức
- 妇人: người phụ nữ đã có chồng
- 丈夫: trượng phu, chồng
- 冠冕: mũ miện, mũ mão của vua quan thời xưa
Thời xưa, mũ miện đại biểu cho quyền lực và danh dự của vua quan, vì thế “才德的妇人,是丈夫的冠冕” có thể hiểu là đối với một người chồng, một người vợ tài đức vẹn toàn chính là thành công của anh ta.
3. Chồng không hiền đức thì không quản được vợ, vợ không hiền đức thì không chăm lo được cho chồng
Hán Việt: Phu bất hiền tắc vô dĩ ngự phụ, phụ bất hiền tắc vô dĩ sự phu
Tiếng Hán: 夫不贤,则无以御妇;妇不贤,则无以事夫 (Fū bù xián, zé wú yǐ yù fù; fù bù xián, zé wú yǐ shì fū)
- 贤: có đức có tài, tài đức
- 御: cai quản, quản lý
- 事: phụng dưỡng
Đây là một câu nói dựa trện hệ tư tưởng xưa, người xưa quan niệm rằng, người chồng không có tài có đức thì không có cách nào quản lý được vợ mình. Ngược lại, người vợ không có tài đức thì không thể nào chăm lo, chăm sóc tốt được chồng và gia đình mình.
4. Phu thê hòa hợp, sống đến bạc đầu
Hán Việt: Phu thê hòa hảo, bạch đầu đáo lão
Tiếng Hán: 夫妻和好,白头到老 (Fūqī hé hǎo, báitóu dào lǎo)
- 和好: hòa thuận, hòa hảo
“夫妻和好,白头到老” có nghĩa là quan hệ vợ chồng hòa thuận, êm ấm thì sẽ ở bên nhau đến già.
5. Vợ chồng hòa thuận, gia đình hạnh phúc
Hán Việt: Phu thê hòa mục, nhất gia chi phúc
Tiếng Hán: 夫妻和睦,一家之福 (Fūqī hémù, yījiā zhī fú)
- 和睦: hòa thuận, vui vẻ
6. Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn
Hán Việt: Phu thê nhất điều tâm, hoàng thổ biến thành kim
Tiếng Hán: 夫妻一条心,黄土变成金 (Fūqī yītiáoxīn, huángtǔ biàn chéng jīn)
- 黄土: đất đỏ
- 金: vàng
Về nghĩa mặt chữ, câu nói này có nghĩa chỉ cần vợ chồng đồng lòng, thì đất đỏ cũng có thể hóa thành vàng. Ngụ ý chỉ cần vợ chồng đồng lòng, thì không có việc gì khó. Ở Việt Nam ta cũng có một câu nói với ý nghĩa tương tự, đó là “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
7. Phu xướng phụ tùy
Hán Việt: Thượng hòa hạ mục, phu xướng phụ tùy
Tiếng Hán: 上和下睦,夫唱妇随 (Shàng hé xià mù, fūchàngfùsuí)
“随” ở đây là thuận theo, nghe theo, vì thế câu nói này có thể hiểu là người vợ phải nghe theo người chồng, phục tùng người chồng. Đây là một câu nói do các nhân sĩ thời Hán nho sửa đổi từ hệ tư tưởng Nho gia trước đó nhằm mục đích củng cố quyền lực của bộ máy cai trị.
8. Một ngày vợ chồng trăm ngày ân nghĩa
Hán Việt: Nhất nhật phu thê bách nhật ân
Tiếng Hán: 一日夫妻百日恩 (Yī rì fūqī bǎi rì ēn)
Câu nói này bắt nguồn từ truyền thuyết về Đổng Vĩnh và Thất tiên nữ. Tương truyền bảy vị tiên nữ của Ngọc Hoàng Đại Đế hạ phàm. Nàng tiên thứ bảy – cô con gái út của Ngọc Hoàng đã phải lòng một chàng trai thật thà tên Đổng Vĩnh. Thất tiên nữ và Đổng Vĩnh nên duyên vợ chồng, nhờ cây hòe cổ chứng giám, nếu cây hòe cổ không cất lời thì tức là hai người hữu duyên vô phận, nếu như cây hòe cất lời thì nhân duyên của hai người được trời cao chúc phúc. Cảm động trước tình cảm của hai người, cây hòe cất tiếng nói, nhưng vì quá kích động, cây hòe nói nhầm “trăm năm hòa hợp” (百年合好) thành “trăm ngày hòa hợp” (百日合好). Vậy nên Thất tiên nữ và Đổng Vĩnh chỉ có thể làm vợ chồng trăm ngày, từ đó có câu nói “một ngày vợ chồng trăm ngày ân nghĩa.
Những danh ngôn Trung Quốc về vợ chồng thật thú vị phải không nào? Hy vọng bài viết này đã đem đến cho các bạn những kiến thức thú vị. Chúc các bạn học tiếng Trung thật tốt!