TÌM HIỂU PHẠM TRÙ NHÂN
TRONG HỌC TRUYẾT NHÂN VĂN NHO GIÁO*
TS. Triệu Quang Minh*
TS. Trần Thị Lan Hương*
Phạm trù Nhân giữ vị trí trung tâm trong triết thuyết Nho giáo. Bản thân phạm trù này vốn đã mang tính đa diện, phong phú. Tùy vào những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau mà Nhân được bộc lộ dưới những nội dung và tầng bậc ý nghĩa khác nhau.
1. Nhân là người, là tồn tại người hiện thực. Bàn về con người, Thiên Lễ vận chép “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chỉ giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí dã”[1], nghĩa là, con người là đức của trời đất và sự giao hợp của âm dương, là hội tụ của quỷ thần, là khí ưu tú của ngũ hành. Theo đó mà xét thì thấy rằng đứng trong tam tài, con người là anh linh của trời đất. Con người trong quan niệm này của Nho giáo lại nảy sinh mâu thuẫn với quan niệm mang tính duy vật khởi phát về nguồn gốc con người. Con người là do trời, đất sinh ra theo nguyên lý muôn vật gốc ở trời, người gốc ở tổ: “Hữu thiên địa nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ nhiên hậu hữu phụ tử, hữu phụ tử nhiên hậu hữu quân thần, hữu quân thần nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu thượng hạ nhiên hậu lễ nghĩ hữu sở thố”[2] Mặc dù, không nhất quán duy vật nhưng mâu thuẫn nội tại đó cũng không làm cho lập trường của Khổng Tử chuyển về phía nhị nguyên, bởi vì, ông chưa từng đồng nhất cái thế tục mang tính vật chất với cái thiêng liêng mang tính ý thức. Vấn đề trọng tâm là, trong nhận thức và sự sắp xếp thứ bậc của Khổng Tử, con người được mặc định với trách nhiệm lớn lao là chuyển hóa thiên địa một cách sáng tạo. Cho nên, những mâu thuẫn chất chứa trong quan niệm của Nho giáo không những không làm ảnh hưởng đến vị trí con người trong tam tài mà dường như còn góp phần gia tăng giá trị của con người.
Nho giáo luôn đặt sự tồn tại của con người ở vị trí trung tâm. Luận ngữ, “Hương đảng đệ thập” có chép lại câu chuyện nhà nuôi ngựa của Khổng Tử bị cháy, Khổng Tử ở triều về mới biết việc, ông hỏi xem có người nào bị thương không chứ không hỏi đến ngựa. Bản thân Khổng Tử cũng khẳng định ba việc mà Khổng Tử thận trọng hơn hết là trai giới, chiến tranh và bệnh tật[3]. Như thế có thể thấy hai trong ba điều Khổng Tử thận trọng đều liên quan đến sự sống của con người. Tư tưởng nhân văn này của Khổng tử khởi phát trong một xã hội mà chiến tranh và bệnh tật đang là mối đe dọa chính đối với cuộc sống của con người. Cho nên, qua đó, có thể thấy rõ không chỉ là sự quan tâm đến tính mạng con người mà còn thể hiện sự ưu tư của Khổng Tử đối với thế cục đương thời. Khổng Tử hằng mong “thắng tàn khứ sát” tức là loại bỏ được hiện tượng tàn bạo trong xã hội và người cầm quyền chẳng cần dùng đến tội hình xử giết nữa. Trước đây, có lần “Quý Khang Tử hỏi Khổng Tử về chính sự, rằng: Nếu như giết những kẻ vô đạo, để mọi người đi tới hữu đạo thì có nên không? Khổng Tử đáp: Ngài cai trị dân, cần gì dùng sự chém giết? Ngài muốn thiện thì dân sẽ thiện. Đức của người quân tử (nhà cầm quyền) như gió. Đức của kẻ tiểu nhân (dân chúng) như ngọn cỏ. Giáo thổi trên cỏ thì cỏ tất rạp xuống”[4]. Tạm không bàn về hạn chế trong quan niệm của Khổng Tử khi phân biệt đức của người quân tử và kẻ tiểu nhân thì có thể thấy hàm ý căn bản của ông là khuyên người cầm quyền nên tránh dùng hình phạt, chém giết.
Theo Khổng Tử, phải để cho điều Nhân vận hành như một quy luật trong xã hội: “Thiện nhân (nối nhau) cai trị đất nước được trăm năm, thì có thể khắc phục hết sự tàn bạo và bỏ hẳn được giết chóc”[5]. Vì vậy, Khổng Tử luôn tìm cách phổ rộng đạo nhân, ông hy vọng những người cầm quyền hiểu được giá trị đạo nhân để có thể đưa xã hội về thời kỳ bình trị.
Không chấp nhận con người có bất cứ hành vi nào coi thường sinh mạng và sự an nguy của bản thân, Khổng Tử còn nhấn mạnh rằng sẽ không sử dụng những người không tiếc sự sống của mình: “Tử Lộ nói: Nếu thầy chỉ huy ba quân, thì thầy chọn ai theo? Khổng Tử nói: Những người đánh hổ bằng tay không và lội mà qua sông, chết không tiếc thân, thì ta chẳng chọn để theo giúp ta. Ắt phải chọn người vào việc biết lo lắng, biết mưu tính để thành công”[6]. Hiểu rộng ra, có thể thấy ý Khổng Tử là nếu con người không biết quý trọng sinh mạng của mình thì tồn tại riêng còn chẳng có nói gì đến mưu sự để thành công. Quan niệm này của ông thể hiện một cách nhìn rất thực tế, đầy tính duy vật biện chứng và nhân văn. Bản thân con người phải biết quý sinh mạng của mình thì mới gìn giữ nó. Có gìn giữ được sinh mạng của bản thân mới có thể giúp người, giúp đời. Khổng tử còn mở rộng quan điểm này khi kịch liệt phản đối các thể dạng tuẫn táng theo người chết bằng hình người gỗ. Ông đặc biệt dùng lời lẽ nặng nề đối với những người đồng tình, cổ vũ hoặc làm việc này. Ông gọi họ là “phường vô hậu” (tức không có người nối dõi). Ông cũng xem việc giữ gìn thân thể con người là một trong các tiêu chí của đạo hiếu: “Mạnh Võ Bá hỏi về đạo hiếu. Khổng Tử đáp: làm cha mẹ chỉ lo con mang bệnh tật (vì vậy con phải biết giữ gìn thân thể khỏe mạnh, tránh nỗi lo cho cha mẹ, thế là hiếu)”[7]. Giữ gìn thân thể mình để duy trì sự sống được coi như một yêu cầu bắt buộc đối với con người. Đó là lý do giải thích vì sao thầy Tăng Tử đến cả trước lúc lâm trung vẫn nhớ gọi bảo học trò mở thân thể, tay chân của mình ra kiểm tra, thấy còn nguyên mới bảo yên tâm về đạo hiếu của mình bấy lâu. “Hãy mở chân ta ra xem! Hãy mở tay ta ra xem! Kinh Thi có câu: “Chiến chiến căng căng, như lâm thâm uyên, như lý bạc băng” (phải e dè răng chừng phòng bị, như đến bên vực sâu, như đi trên băng mỏng). Từ đây về sau, ta mới biết rằng ta (đã giữ được tấm thân ta) thoát khỏi tật nguyền đó các trò ạ”[8]
Mạnh Tử khi phát triển quan điểm của Khổng Tử ở nội dung này đã nhấn mạnh lại rằng: “Trong những việc cần phụng sự thì phụng sự cha mẹ là quan trọng nhất. Trong những việc phải giữ gìn thì việc giữ gìn thân thể mình là quan trọng nhất; Kẻ chẳng biết giữ gìn lại còn hủy hoại thân thể cho đến mang bệnh vướng tật thế mà lại có thể phụng sự cha mẹ chí hiếu thì không thể có được”[9]
Từ sự tương đồng, nhất quán trong quan niệm của các đại biểu Nho giáo, có thể nhận thấy nếu hiếu đạo được Nho giáo đề cao tột bậc thì yêu cầu người con phải giữ gìn thân thể mình được hiểu như một quy tắc bắt buộc để thực hành đạo hiếu. Đây là một tư tưởng mang tính nhân văn phổ quát. Một mặt tính nhân văn bộc lộ thông qua những nguyên lý duy vật tất yếu mang tính nghĩa vụ: con cái là do cha mẹ sinh ra, hình hài, tóc tai…đều do mượn của mẹ cha cả chứ không phải của mình nên tự mình không có quyền hủy hoại nó. Mặt khác, tư tưởng này cho thấy mối liên hệ không thể tách rời giữa các lớp người thuộc các thế hệ khác nhau. Tấm lòng bao dung, nhân ái của cha mẹ và các bậc bề trên luôn mong muốn con em mình được sống mạnh khỏe, không mang bệnh, vướng tật. Xét cho cùng, phải chăng một sự tồn tại người như thế mới thực sự là tiền đề cho mọi tồn tại khác? Hay nói cách khác, việc bảo vệ thể lực chính là điều kiện tiên quyết để tạo cơ hội và điều kiện phát huy trí lực của con người.
Nếu sống làm người chỉ giữ gìn thân thể, bảo vệ và nâng cao thể lực thì chưa thật trọn vẹn. Đó chỉ xem như tiền đề đầu tiên để tồn tại, điều quan trọng là phải xem tồn tại này là tồn tại với chất lượng như thế nào.
2. Nhân nghĩa sống là phải dụng tâm nỗ lực để trở thành Người (thành danh)
Đối với việc học lễ, thực hành lễ với tư cách là nguyên tắc căn bản của đời sống xã hội, mỗi cá nhân đều có nhân cách lý tưởng để phấn đấu theo. Chính điều này quy định lý thuyết Nho giáo chú trọng vào việc sống sao cho ra người, cho có giá trị, tức “thành nhân”. Muốn sống cho ra người, thành nhân thì lẽ sống căn bản là luôn phải dụng tâm, nỗ lực, cố gắng trong công việc, hướng về điều thiện, khuyến khích và làm điều thiện. Khổng Tử quan niệm những người lười biếng, ăn no nằm dài không chịu làm việc thì chẳng làm nên trò trống gì, thà rằng nằm không như thế thì nên đánh cờ giải trí còn có ích lợi nhiều. Sách Luận Ngữ chép “Khổng Tử nói: cả ngày ăn no rồi lại chẳng dụng tâm vào việc gì, thì khó lắm thay! Há chẳng có việc đánh cờ sao? Thà chơi trò giải trí đó còn hơn là ngồi không”[10]. Yêu cầu này của Khổng Tử không phải chỉ đề ra với những người muốn “vi chính”, “vi bang”, muốn “tùng chính”, muốn thành “quân tử”, mà ngay cả đối với những người bình thường ông cũng yêu cầu họ phải bồi dưỡng về cả thể lực và trí lực để tâm làm mọi việc một cách nỗ lực, thận trọng. Ở đây, Khổng Tử đặt niềm tin xác tín mạnh mẽ vào sự tự nỗ lực bên trong của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện nhân cách và trùng phục bản tính ngay thẳng vốn có của con người.
Tư tưởng này của Khổng Tử về sau được Mạnh Tử triển khai và phát triển theo học thuyết tính thiện. Ông khẳng định: “Tâm tình thương xót chẳng nỡ, mọi người đều có; tấc lòng hổ thẹn chán ghét, chẳng có ai không; nỗi tình cung khiêm kính nhượng, ai ai cũng sẵn; tấm lòng biết phải biết quấy, không người nào thiếu”[11]. Cho nên, Mạnh Tử cho rằng là người thì không thể thờ ơ, vô cảm trước công việc chung liên quan đến con người. Bản tính thiện, tứ đoan vốn là tài sản của mỗi cá nhân, nằm sâu trong ý thức của họ, nếu biết phát huy thì nó nhân lên sức mạnh. Mạnh Tử khuyến cáo mọi người: “Hễ mình có sẵn bốn đầu mối ấy nơi mình mà mình biết mở rộng ra cho chúng nó được sung túc, thì chúng nó như ngọn lưae nhen nhúm sắp cháy bừng, như dòng suối phát tích sắp lưu thông. Nếu mình biết làm cho bốn mối thương xót, hổ thẹn, khiêm nhường và phải quấy ấy được sung túc nơi mình thì mình đủ sức giữ gìn bốn biển; còn như mình chẳng biết làm sao cho chúng nó được sung túc, thì mình chẳng đủ sức phụng dưỡng cha mẹ”[12]. Thực chất đó là triết lý nhân sinh của người quân tử trước thế cục bi thương đầy tính phi nhân. Tất nhiên, đứng trước thực trạng xã hội theo mô tả của Mạnh Tử là đánh nhau tranh thành, giết người, thây chết đầy thành; đánh nhau tranh đất, giết người, thây chất đầy đồng…mà chỉ kêu gọi con người hướng về tâm thiện để giải quyết tình trạng xã hội loạn lạc ấy thì xem ra có vẻ rất cải lương. Song, theo một giác độ nhất định, có thể nói, khi phát triển học thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử đã chạm tới tầng sâu hệ giá trị nhân bản của con người để kêu gọi, khuyên răn mọi người trở về với thiện căn. Mỗi một cá nhân ý thức được về sự trùng phục bản tính thiện vốn có thì chính họ đã góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Như vậy, có thể thấy tính xã hội trong quan niệm về con người của Nho giáo là một đóng góp quan trọng. Tính xã hội của con người được xem như một tiêu chí để xác định cấp bậc cao hơn so với cuộc sống đồng loại loài động vật. Tứ Thư chép: có người nói với học trò Khổng Tử - Tử Lộ rằng“khắp thiên hạ đều loạn lạc như nước đổ cuồn cuộn, các ngươi cùng chung sức với ai mà đổi đời loạn ra đời trị? Ngươi đi theo kẻ tị nhân [là Khổng Khâu kia], sao bằng đi theo kẻ tị thế? …Tử Lộ về thuật lại với Khổng Tử. Khổng Tử ngậm ngùi nói: Người ta không thể làm bạn với cầm thú. Nếu ta chẳng sống chung với con người [trong xã hội này] thì sống với ai?. Nếu thiên hạ thái bình (hữu đạo) thì ta đã chẳng cùng các ngươi đi mưu sự sửa đổi”[13]. Do xã hội vô đạo nên Khổng Tử phải cùng các học trò tìm cách đổi đời dịch thế. Công cuộc ấy cho đến hết cuộc đời mình, Khổng Tử vẫn chưa làm được. Nhưng không phải vì thế mà ông né tránh sự đời, ông kịch liệt phản đối thái độ “tị thế”. Bởi chăng, con người sống phải hợp quần, phải mang bản tính xã hội. Chỉ có trong xã hội loài người, giá trị đích thực của con người mới được xác lập, bằng không thì sẽ chỉ là loài cầm thú mà thôi. Đồng quan điểm với Khổng Tử, Mạnh Tử cũng xem thái độ, trách nhiệm xã hội của con người là tiêu chí để phân biệt con người và con vật. Mạnh Tử đã kế thừa và phát triển nội dung học thuyết Nhân của Khổng Tử với sắc thái và nội dung mới hơn, sâu sắc hơn. “Nhân, nhân tâm dã” (nghĩa là nhân là lương tâm của người) do đó nhân theo đó không chỉ là thuộc tính vốn có mà là cái con người cần phải có trong đối nhân xử thế. Nghĩa là nhân không dừng ở ý nghĩ hay mong muốn trùng phục bản tính thiện mà còn phải thể hiện lòng nhân ái, lương tâm của con người thông qua hành động. Đây là quan điểm rất tiến bộ, là điểm mấu chốt thể hiện và khẳng định bản chất xã hội của con người.
3. Người nhân phải luôn kết hợp tri và hành để hoàn thành trách nhiệm, công việc
Việc gắn con người với quá trình học tập, rèn luyện không ngừng nghỉ để hoàn thiện nhân cách của Nho giáo đặt tất thảy mọi thứ đều nằm trong quá trình vận động, muốn chí thành thì phải làm việc bền bỉ cũng giống như muốn thay đổi về chất ắt phải tích lũy về lượng vậy. Không những thế, việc gì cũng có tính mâu thuẫn tự bên trong, cho nên phải biết phân biệt phải trái, thiện ác…mà muốn thế chỉ có kết hợp tri hành, cũng giống như từ nhận thức đến thực tiễn vậy.
Tuân Tử nhất quán với nguyên lý tri đi đôi với hành và cho rằng tính người vốn ác, nhờ thông minh hiểu biết, tu dưỡng mà hóa thành tính thiện. Phương pháp giáo dục, uốn nắn cái tính của Tuân Tử cũng giống như Mạnh Tử, ông vẫn chủ trương dùng lễ nghĩa, lễ nhạc. Ông chỉ rõ, tính của người ta vốn ác, nó mà hóa thiện được là do công của người ta…Cho nên gỗ cong thì phải luộc rồi uốn nắn mới ngay, sắt nhụt thì phải giũa mài rồi mới sắc. Nay tính người ta ác thì phải có thầy, có phép, rồi mới thành ra thẳng ngay, phải nhờ lễ nghĩa rồi mới thành ra trị. Người mà không có thầy, có phép thì thiên lệch, hiểm ác mà không thẳng ngay, không lễ nghĩa thì bội loạn mà không trị. Quan điểm của Tuân Tử về việc sử dụng lễ nghĩa lại thường bị người đời sau đồng nhất với quan điểm của Hàn Phi Tử của học phái Pháp gia về việc sử dụng hình pháp. Thực chất, Tuân Tử khẳng định bản tính con người vốn ác, hám lợi, thích nhàn hạ, thuận theo tính đó thì sinh ra tàn tặc, mất trung tín,… song ông vẫn đồng quan điểm với Khổng Tử, Mạnh Tử, chủ trương nhân chính, dùng đức để an dân, kết hợp với việc khôi phục và phát huy lễ nghĩa. Sau có người cho rằng Tuân Tử tự mâu thuẫn với chính mình vì tính người vốn ác thì lấy đâu ra văn lý lễ nghĩa mà dùng.
Trong quá trình nỗ lực tri hành, Tuân Tử đặc biệt nhắc nhở: “Thấy điều thiện phải nghiêm chỉnh tự xem xét mình có điều thiện đó không; thấy điều chẳng thiện, phải lo sợ tự xem xét mình có điều bất thiện đó không. Thấy có điều thiện ở nơi mình thì phải thích thú mà kiên quyết giữ đừng để mất; thấy điều bất thiện ở nơi mình, thì phải ghê tởm mà mạnh dạn trừ cho bằng được”[14]. Tuân Tử còn đưa thêm phương pháp “tư thiện”, “tích thiện”, nghĩa là suy nghĩ về điều thiện, mỗi ngày làm một việc thiện để uốn nắn bản tính con người từ ác thành thiện.
Nếu như tính thiện ở Mạnh Tử vừa là xuất phát điểm, vừa là cái vốn có để trở về thì với Tuân Tử nó là cái đích đến của tri và hành. Mọi sự dụng tâm, nỗ lực là để đến với kết quả đó. Nói cách khác, Mạnh Tử và Tuân Tử có hai xuất phát điểm trái ngược, cùng vận hành nguyên lý nhận thức đi đôi với hành động đã tìm đến được một cái đích chung mang tính nhân văn. Mạnh Tử cho rằng, tính người vốn thiện, chỉ cần trùng phục, mở rộng ra các đầu mối thiện ấy là điều thiện thắng thế. Tuân Tử cũng tin tưởng rằng tính người là “khả hóa” tức có thể giáo dục, uốn nắn, tu dưỡng được. Ông xem việc con người từ ác trở thành thiện được là do dĩ tâm trị tính, nghĩa là đem cái trí, cái lực, cái năng của tâm mà trị cái ác của tính. Thực chất dù coi thiện là cái vốn có cần được trùng phục và phát huy hay là cái sẽ đạt được sau quá trình tu dưỡng, thực hành đạo thì đó đều là triết lý nhân sinh của người quân tử trước thế cục bi thương đầy tính phi nhân. Tất nhiên, đứng trước thực trạng xã hội theo mô tả của Mạnh Tử là: đánh nhau tranh thành, giết người, thây chết đầy thành; đánh nhau tranh đất, giết người, thây chất đầy đồng… mà chỉ kêu gọi con người hướng về tâm thiện như hoặc phải chi hành cho đến nơi đến chốn, phải công bằng, làm việc tích thiện… để giải quyết tình trạng xã hội loạn lạc ấy thì xem ra có vẻ rất cải lương. Song, theo một giác độ nhất định, có thể nói, khi phát triển học thuyết của Khổng Tử, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều đã chạm tới tầng sâu hệ giá trị nhân bản của con người để kêu gọi mỗi một cá nhân ý thức được về việc góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp. Cao hơn, có thể thấy ở đây, Nho giáo với tính biện chứng từ khởi nguyên đã thấy được vai trò quan trọng của nhân tố ý thức, tinh thần. Khổng Tử luôn đặt niềm tin xác tín mạnh mẽ vào sự tự nỗ lực bên trong của mỗi cá nhân để tự hoàn thiện nhân cách và trùng phục bản tính ngay thẳng vốn có của con người. Hơn thế nữa, con người trong quan niệm của Nho giáo không phải là con người cầu sự bình an cho bản thân mà luôn là người quân tử đầy trăn trở, trách nhiệm trước xã hội loạn lạc.
Dù là cá thể nào, kết quả của việc kết hợp tri hành của anh ta để đến với cái thiện hay trở về cái thiện luôn thể hiện ra thông qua vai trò của chính anh ta xã hội. Cho nên, theo quan điểm của Nho giáo thành danh chính là thước đo đầu tiên mà xã hội đương thời dùng để đánh giá giá trị một cá nhân. Sự học để ghi danh bảng vàng, lưu vào sử sách, để được phong tước quan, được phò nghiêng đỡ lệch của người quân tử giống như một con đường định trước, anh ta bắt buộc phải đi. Nếu lấy việc cổ xúy cho việc thăng quan tiến chức, đua danh bán tước mà xét thì Nho giáo đã từng chịu rất nhiều điều tiếng trong lịch sử. Song, ở khía cạnh tích cực, chính việc khuyên con người, buộc họ phải chọn con đường thành danh để giúp vua, giúp đời đã góp phần tạo dựng một xã hội với một đội ngũ trí thức đông đảo. Họ là những con người không né tránh việc đời, việc người cho dù kết quả công việc là thành danh hay “vô sở thành danh” (chẳng nên công cán gì). Nói một cách khác, một mặt lý luận thực tiễn và tinh thần nhập thế thúc đẩy con người Nho gia phải đương đầu, đối diện với thế giới chính trị đầy bất công, thô bạo và tìm cách chuyển hóa nó từ bên trong. Niềm tin vào năng lực của bản thân, vào tính chất có thể hoàn thiện của bản chất con người khiến cho người trí thức có thể duy trì một thái độ phê phán đối với giới cầm quyền và hy vọng hợp tác được với các cá nhân khác vì một xã hội nhân tính tốt đẹp hơn.
* Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông
* Học viện Chính trị Khu vực 1
* Đại học Mỏ Địa chất
[1] Viện nghiên cứu Hán Nôm: Ngũ kinh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr 763
[2] Nguyễn Chu Tinh (dịch), Chu dịch, Kinh hạ, Trung tâm học liệu Sài Gòn, 1968, tr379.
[3] Viện nghiên cứu Hán Nôm, Tứ thư, Nxb. Văn học, tr. 343.
[4] Sđd, tr.427.
[5] Sđd tr. 445.
[6] Sđd, tr.343.
[7] Sđd, tr. 245.
[8] Sđd, tr. 359.
[9] Trần Trọng Sâm, Tứ Thư, Nxb. Quân Đội, Hà Nội. 2003, tr.668
[10] Viện nghiên cứu Hán Nôm, Tứ thư, Nxb. Văn học, tr. 532.
[11]Đoàn Trung Còn (dịch), Mạnh Tử, quyển hạ, Nxb.Trí đức tòng thơ, Sài Gòn, 1950, tr. 152-153.
[12] Đoàn Trung Còn (dịch), Mạnh Tử, quyển thượng, Nxb. Trí đức tòng thơ, Sài Gòn, 1950, tr. 106- 107.
[13] Viện nghiên cứu Hán Nôm, Tứ thư, Nxb. Văn học,tr 543.
[14] Nguyễn Hiến Lê: Tuân Tử, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.2004, tr.128.